CHƯƠNG
3
CHIẾN ĐẤU
CHỐNG “CHIẾN TRANH CỤC BỘ” Ở MIỀN NAM
VÀ CHIẾN TRANH
PHÁ HOẠI MIỀN BẮC LẦN THỨ NHẤT
CỦA ĐẾ QUỐC MĨ
(1965 - 1968)
1. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến
tranh cục bộ" của Mĩ (1965 - 1968)
1.1. Mĩ tiến hành chiến lược
"Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam
Cuối năm
1964 đầu năm 1965, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mĩ đứng trước nguy cơ
thất bại hoàn toàn. Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mĩ nhận định rằng: “Chúng
ta (Mĩ) sẽ bị sa lầy trong cuộc chiến đấu ở rừng rậm, với một cố gắng quân sự
mà ta không thể giành thắng lợi và cũng rất khó lòng rút ra”[5: 10].
Để cứu vãn
tình hình, tháng 12/1964, Giônxơn đã chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục
bộ”: ồ ạt đưa quân viễn chinh, quân chư hầu cùng vũ khí và phương tiện chiến
tranh hiện đại vào miền Nam Việt Nam để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược và
mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc Việt Nam[1].
Chiến lược “chiến tranh cục bộ” chính thức
bắt đầu từ giữa năm 1965. Đây là hình thức xâm lược thực dân mới được tiến hành
bằng lực lượng quân viễn chinh Mĩ, quân chư hầu và ngụy quân. Trong đó quân Mĩ
giữ vai trò quan trọng và không ngừng tăng lên về số lượng lẫn trang bị.
Đầu năm 1965, những hoạt động chuẩn bị cho
chiến lược chiến tranh mới này bắt đầu được đẩy mạnh: cuối năm 1964, lực lượng
quân Mĩ có mặt ở miền Nam khoảng 26.200, đến cuối năm 1965 đã tăng lên đến
200.000, đến cuối năm 1967 là 537.000. Chưa kể 70.000 lính Mĩ ở Hạm đội 7 và
20.000 lính chư hầu sẵn sàng tham chiến. Ngày 8/2/1965, Mĩ đưa đại đội máy bay
F105 vào Biên Hòa, sau đó đưa tiểu đoàn tên lửa phòng không “Hock” vào Đà Nẵng.
Ngày 8/3/1965, tiểu đoàn lính thủy đánh bộ số 1 và số 3 thuộc lữ đoàn Hải quân
viễn chinh số 9 của Mĩ đổ bộ vào Đà Nẵng, mở đầu cho quá trình tham chiến trực
tiếp của Mĩ ở miền Nam.
Ngày 01/5/1965, Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Oét –
mo – len đã đề xuất với chính phủ Mĩ một “chương trình hợp tác” bao gồm ba nội
dung chính là: tảo thanh, bảo đảm an ninh, tìm và diệt, được thực hiện qua ba
giai đoạn:
Giai đoạn 1 (từ tháng 7 đến tháng 12/1965):
Triển khai các đơn vị chiến đấu Mĩ và quân một số nước đồng minh của Mĩ vào
miền Nam, ngăn chặn sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn, hoàn thành việc triển khai
lực lượng, chuẩn bị cho các cuộc hành quân giành lại thế chủ động trên chiến
trường.
Giai đoạn 2 (từ tháng 01 đến tháng 6/1966):
mở cuộc phản công chiến lược tìm và diệt ở những vùng ưu tiên đã được xác định,
tiêu diệt chủ lực Quân giải phóng miền Nam, phá chiến tranh du kích, giành lại
quyền chủ động chiến trường, tổ chức các hoạt động bình định nông thôn.
Giai đoạn 3 (từ tháng 7/1966 đến tháng 6/1967
hoặc chậm lắm là cuối năm 1967): mở tiếp các cuộc tiến công “tìm và diệt” những
đơn vị chủ lực quân giải phóng còn lại, phá căn cứ kháng chiến và tiêu diệt cơ
quan đầu não của cách mạng miền Nam, hoàn thành về cơ bản kế hoạch bình định
nông thôn, rút quân Mĩ về nước.
Ngày 26/6/1965, chính phủ Mĩ cho phép đưa
quân Mĩ ra trận “khi nào thấy cần thiết”. Và quân đội Mĩ đã mở đầu hành động
quân sự của mình ở miền Nam Việt Nam bằng một cuộc hành quân hỗn hợp (gồm lữ
đoàn dù 173, một tiểu đoàn Úc cùng với lực lượng ngụy quân) tấn công vào phía
Tây Bắc Sài Gòn kéo dài 5 ngày (đến ngày 30/6/1965).
Tiếp đến, Giôn – xơn đã chấp thuận đề nghị sử
dụng sức mạnh của lực lượng quân sự Mĩ để tiến hành các cuộc càn quét “tìm
diệt” các lực lượng “cộng sản” của tướng Oét – mo – len và quyết định tăng quân
Mĩ lên đến 44 tiểu đoàn (17/7/1965) để đảm bảo cho việc thực hiện kế hoạch này.
Mục tiêu của “chiến lược chiến
tranh cục bộ” là:
1. Nhanh chóng tạo ra ưu thế về binh lực và
hỏa lực có thể áp đảo được chủ lực của ta bằng chiến lược quân sự mới “tìm và
diệt”, cố giành lại thế chủ động trên chiến trường, đẩy lực lượng vũ trang của
ta trở về phòng ngự, buộc ta phải phân tán nhỏ, hoặc rút về biên giới, làm cho
cuộc chiến tranh cách mạng tàn lụi dần.
2. Mở rộng và củng cố hậu phương của chúng,
lập đội quân “bình định” kết hợp với hoạt động quân sự, càn quét với các hoạt
động chính trị và xã hội lừa bịp; tung tiền của vào miền Nam ngày càng nhiều để
thực hiện cho kì được “mặt trận thứ hai” nhằm vào cái mà chúng gọi là “tranh
thủ trái tim nhân dân”, thực chất là giành lại dân, trước hết là nông dân ở
vùng được giải phóng, bắt họ trở lại ách kìm kẹp tàn bạo của Mĩ - ngụy.[37:
168]
Bắt đầu từ năm giữa năm 1965, Mĩ mở hàng loạt
cuộc hành quân lớn với mục tiêu “tìm diệt và bình định” nhằm vào các căn cứ
cách mạng: mở đầu là cuộc hành quân “tìm diệt” mang tên “ánh sáng sao”, đánh
vào căn cứ của ta ở Vạn Tường – Quảng Ngãi. Tiếp đó, Mĩ mở liên tiếp hai cuộc
phản công lớn trong hai mùa khô 1965 - 1966 và mùa khô 1966 - 1967[2]
với hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” vào những vùng “đất
thánh Việt Cộng”, hòng tiêu diệt cơ quan đầu não và lực lượng kháng chiến của
ta.
1.2. Chiến đấu chống chiến lược "Chiến
tranh cục bộ" của Mĩ
Trước hành động leo thang quân sự của Mĩ ở
miền Nam Việt Nam, Hội nghi Trung ương lần thứ 12 của Đảng đã nhận định: “đó
vẫn là cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới, tính chất và mục tiêu quân sự
của nó không có gì thay đổi. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này diễn ra ác liệt
hơn, vì từ chỗ hoàn toàn dựa vào quân đội Sài Gòn, nay thêm cả quân viễn chinh
Mĩ và quân của 5 nước: Nam Triều Tiên, Thái Lan, Philíppin, Úc, Tân Tây Lan,
với quân số đông và thiết bị hiện đại hơn nhiều”[28: 202]
Vậy thực lực của ta liệu có đủ sức để đối phó
với âm mưu chiến lược mới của kẻ thù hay không?
Lúc này ta đang nắm quyền chủ động trên chiến
trường, xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc, liên hoàn giữa
ba vùng chiến lược. Năm 1964, lực lượng chủ lực của ta ở miền Nam đã có 11
trung đoàn và 15 tiểu đoàn, đến cuối năm 1964, đã lên đến 5 sư đoàn, 11 trung
đoàn bộ binh, nhiều tiểu đoàn, trung đoàn binh chủng kĩ thuật trang bị tương
đối hiện đại. Lực lượng đặc công, biệt động của ta rất tinh nhuệ, dày dạn kinh
nghiệm…
Ta lại có hệ thống căn cứ địa cách mạng vững
chắc, lực lượng của ta được bố trí cài ém, xen kẻ với địch tạo thế “cài răng
lược”, tạo được hiệu quả cao trong chiến đấu và làm cho địch không thể phát huy
được tối đa thế mạnh của các phương tiện chiến tranh hiện đại.
Có thể nói, nếu so sánh riêng về quân sô và
tranh thiết bị, vũ khí thì ta không hiện đại, chính quy như địch, nhưng so sánh
về tổng thể thì địch lại đang ở thế bị động và có nhiều hạn chế. Những hạn chế
của địch đã làm cho so sánh lực lượng có phần nghiêng về lực lượng cách mạng.
Trung ương đã phân tích rằng, cuộc chiến
tranh của Mĩ ở miền Nam Việt Nam
càng mở rộng và kéo dài thì sẽ càng bộc lộ nhiều mâu thuẫn. Đây là những điều
kiện thuận lợi để ta phát huy thế mạnh của chiến tranh nhân dân, chiến tranh
chính nghĩa. Những mâu thuẫn đó là:
1. Mâu thuẫn giữa mục đích muốn giấu mặt trá
hình để áp đặt chủ nghĩa thực dân mới nhưng buộc phải tiến hành chiến tranh
bằng quân viễn chinh Mĩ, nên chúng nhanh chóng bị lộ mặt.
2. Mâu thuẫn giữa tiến hành chiến tranh xâm
lược nhưng phải xây dựng cho được chính quyền, quân đội tay sai bản xứ làm chỗ
dựa và là công cụ xâm lược của Mĩ nhằm áp đặt cho được chủ nghĩa thực dân kiểu
mới.
3. Mâu thuẫn khi buộc phải tiến hành chiến
tranh để giữ vững và củng cố chính quyền, quân đội tay sai với thực tế càng
tiến hành chiến tranh thì chính quyền và quân đội đó càng lục đục, suy yếu, lệ
thuộc Mĩ, đồng thời kéo theo sự suy yếu của chính bản thân Mĩ.
4. Mâu thuẫn giữa sức mạnh quân sự vốn có,
nhưng do phi nghĩa và đặc điểm của thời đại chi phối, lại phải tiến hành chiến
tranh xâm lược thực dân kiểu mới nên đế quốc Mĩ không thể sử dụng hết sức mạnh
quân sự của bản thân chúng trong cuộc chiến tranh cách xa nước Mĩ.[37: 171]
Trên cơ sở những phân tích đó cùng với điều
kiện thực tế, Hội nghị 12 đã đi đến kết luận: “Mặc dù đế quốc Mĩ đưa vào miền
Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không
thay đổi lớn…; quân và dân miền Nam hoàn toàn có khả năng tiêu diệt những đơn
vị tinh nhuệ nhất của quân viễn chinh Mĩ, tiêu diệt những đơn vị ngày càng lớn
của quân chủ lực ngụy…”[37: 172]
Phương châm chiến lược được đề ra trong giai
đoạn này là “tiếp tục kiên trì đấu tranh quân sự kết hợp với đấu tranh chính
trị, triệt để vận dụng ba mũi giáp công, … tiếp tục quán triệt và vận dụng
phương châm đánh lâu dài”[Dẫn lại; 5: 162,163]
Dưới ánh sáng của Nghị quyết 12, với ý chí
“quyết chiến, quyết thắng giặc Mĩ xâm lược”, cùng với sự chi viện của miền Bắc
và sự giúp đỡ của bè bạn quốc tế, quân và dân miền Nam đã từng bước đánh bại
chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mĩ trên tất cả các lĩnh vực.
1.2.1. Đấu tranh chính trị phát triển
Mĩ - ngụy đẩy mạnh thực hiện chương trình
“bình định” bằng những chương trình mang tên mới như “Chương trình phát triển
cách mạng quốc gia”, “chương trình tái thiết nông thôn”, “Chương trình chống
nghèo đói”. Đồng thời, các ấp chiến lược cũng được đổi thành những tên gọi mới
là “ấp đời mới”, “ấp tân sinh”… Và để thực hiện những chương trình này, chúng
đã huy động lực lượng quân đội mở các cuộc càn quét, dồn dân vào các “ấp đời
mới”, “ấp tân sinh” nhằm tách quần chúng cách mạng ở nông thôn ra khỏi lực
lượng cách mạng.
Hành động tàn bạo của Mĩ - ngụy đã làm cho
phong trào đấu tranh của quân chúng nhân dân ở các vùng nông thôn miền Nam chống
kìm kẹp, chống dồn dân, trừng trị bọn ác ôn… diễn ra quyết liệt. Kết quả, từng
mảng “ấp đời mới”, “ấp tân sinh” do chúng lập ra đã bị phá vỡ.
Ở các thành thị, công nhân, học sinh, sinh
viên, phật tử… bắt đầu nổi lên đấu tranh đòi Mĩ cút về nước, đòi tự do, dân
chủ, dân sinh…trong cuối năm 1955 và bùng phát mạnh mẽ vào đầu năm 1956, tiêu
biểu như:
Ngày 12/3/1966, lực lượng các tín đồ phật
giáo yêu nước ở Huế đã tổ chức mittinh ở chùa Diệu Đế và thành lập lực lượng
tranh thủ cách mạng. Và sinh viên Huế cũng đã thành lập “Hội đồng sinh viên
tranh thủ cách mạng”. Sau đó, hoạt động đấu tranh chính trị của sinh viên, phật
tử diễn ra mạnh mẽ ở huế và lan rộng đến Đà Nẵng và Sài Gòn.
Đồng thời uy tín của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế: các nước xã hội chủ
nghĩa đã có quan hệ với mặt trận, cương lĩnh chính trị của Mặt trận được 41
chính phủ và 12 tổ chức quốc tế lên tiếng ủng hộ.
1.2.2. Đấu tranh trên lĩnh vực quân sự
1.2.2.1.
Chiến thắng Núi Thành (Quảng Nam)
Sau khi chiếm đóng Chu Lai, Mĩ đã huy động
một đại đội tiến hành càn quét lên phía Tây và chiếm Núi Thành (Quảng Nam) để mở rộng vùng kiểm soát. Trước tình hình
trên, Bộ tư lệnh quân khu V và Tỉnh đội Quảng Nam
đã quyết định tấn công vào Núi Thành.
Vào lúc 0 giờ 30 phút ngày 26/5/1965, quân ta
đã mở màn trận tấn công vào nơi đóng quân của Mĩ ở Núi Thành. Kết quả, ta đã
loại khỏi vòng chiến đấu 140 tên, thu toàn bộ vũ khí và quân dụng của địch.
Tuy chỉ là một chiến thắng nhỏ, nhưng đây là
trận thắng Mĩ đầu tiên của quân dân miền Nam.
Với khí thế Núi Thành, quân dân miền Nam
đã đưa ra khẩu hiệu hành động “tìm Mĩ mà đánh, gặp Mĩ là diệt”.
1.2.2.2.
Chiến thắng Vạn Tường (Quảng Ngãi)
Vạn Tường là một thôn nhỏ ven biển thuộc xã
Bình Thiện, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, cách căn cứ Chu Lai khoảng 17 km
về hướng Đông Nam. Đây là vùng đã được giải phóng từ năm 1965, là nơi đóng quân
của Trung đoàn 1 chủ lực Quân khu 5 và bộ đội địa phương.
Sau khi phát hiện quân chủ lực của ta đang
đóng ở Vạn Tường, Quân đội Mĩ đã huy động một lực lượng lớn lính thủy đánh bộ
mở cuộc hành quân mang tên “Ánh sáng sao” – Starlite đánh vào Vạn Tường, nhằm
tiêu diệt chủ lực của ta ở đây.
Đêm 17/8, địch đã pháo kích vào các thôn xóm
trong khu vực để dọn đường cho cuộc tiến công. Đến mờ sáng ngày 18/8/1965, hơn
9.000 lính thủy đánh bộ Mĩ và quân ngụy cùng với nhiều vũ khí, phương tiện
chiến tranh hiện đại (6 tàu đổ bộ, xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên
thẳng và 70 máy bay chiến đấu) đã tấn công vào Vạn Tường để “tìm diệt”
lực lượng chủ lực của ta.
Tại đây, chúng đã vấp phải sự chống trả quyết
liệt của quân ta[3].
Sau một ngày chiến đấu, ta đã đẩy lùi được cuộc hành quân của địch, tiêu diệt
được hơn 900 tên, phá hủy hàng chục xe tăng, xe bọc thép và máy bay của địch.
Đêm 18 rạng ngày 19/8/1965, lực lượng của ta bí mật rút khỏi Vạn Tường.
Chiến
thắng Vạn Tường đã cho thấy, quân và dân ta hoàn toàn có khả năng đánh thắng
được Mĩ. Nói về ý nghĩa của chiến thắng Vạn Tường, Tổng Bí thư Lê Duẩn viết: “…
trận Vạn Tường đã chứng tỏ một cách hùng hồn khả năng của ta đánh bại được quân
Mĩ trong điều kiện chúng có ưu thế tuyệt đối về binh khí, hỏa lực”. [26:
131]
Sau chiến thắng Vạn Tường, phong trào “tìm Mĩ
mà đánh, tìm ngụy mà diệt” của quân dân ta trên khắp miền Nam phát triển mạnh mẽ. Nhiều trận đánh phủ đầu
quân viễn chinh Mĩ đã diễn ra liên tục ở khu V, Trị - Thiên, Đông Nam bộ và tiêu biểu là trận Plâyme – Tây Nguyên
(từ 19/10 đến 20/11/1965).
1.2.2.3. Đánh tan hai cuộc phản công mùa khô
1965 – 1966
Những thất bại của Mĩ trong năm 1965 đã thúc
đẩy chính quyền Mĩ tiếp tục tăng thêm quân số và phương tiện chiến tranh ở miền
Nam: Đến cuối năm 1965, quân số của Mĩ ở miền Nam đã lên đến hơn 20 vạn như kế
hoạch, sang đầu năm 1966, Mĩ đưa thêm hai trung đoàn lính thủy đánh bộ số 1 và
số 5 cùng tập đoàn không quân số 7 vào miền Nam, nâng quân số của Mĩ và các
nước đồng minh của Mĩ ở miền Nam lên đến 720.000 quân.
Sau những thất bại liên tiếp trong năm 1965,
Bộ chỉ huy quân sự Mĩ đã ráo riết chuẩn bị mở cuộc phản công chiến lược mùa khô
1965 – 1966 (nhằm tranh thủ điều kiện thời tiết thuận lợi trong mùa khô ở miền
Nam để phát huy tối đa tính cơ động, sức mạnh của vũ khí, kĩ thuật và phương
tiện chiến tranh hiện đại trong tác chiến) để tìm diệt lực lượng chủ lực của
ta.
Địch đã sử dụng một lực lượng mạnh cùng các
phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc phản công mùa khô lần thứ nhất (1965 -
1966) kéo dài 4 tháng với 450 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 5 cuộc hành
quân “tìm diệt” lớn nhằm vào năm hướng chiến lược chính[4]
thuộc hai chiến trường trọng điểm là Đông Nam Bộ và Đồng bằng khu 5 nhằm tiêu
diệt chủ lực quân giải phóng, “bẻ gãy xương sống Việt Cộng”, giành lại thế chủ
động trên chiến trường.
Ngày 8/01/1966, quân Mĩ và chư hầu chính thức
mở cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất đánh vào miền Đông Nam bộ. Mở đầu là cuộc hành quân Maroser đánh
vào Bàu Trai, Hậu Nghĩa, sau đó, chúng mở tiếp cuộc hành quân Grimg đánh vào Củ
Chi, Bến Cát. Đầu tháng 2/1966, quân Mĩ tiến xuống phía Đông Sài Gòn và chiến
khu Dương Minh Châu (Tây Ninh).
Ngày 19/1/1966, quân Mĩ đánh ra nam tỉnh Phú
Yên, mở đầu cho cuộc tấn công khu V. Ngày 28/01/1966, địch mở cuộc tiến công
bắc Bình Định, đồng thời chúng còn tấn công ở Hảo Sơn và đèo Cả thuộc tỉnh Phú
Yên để yểm trợ cho cuộc tiến công ở hướng bắc Bình Định. Ở hướng nam Quảng Ngãi,
địch mở cuộc hành quân Double Aighle đánh vào Đức Phổ, Mộ Đức và Ba Tơ.
Quân dân ta với thế trận chiến tranh nhân
dân, bằng nhiều hình thức tác chiến khác nhau đã chặn đánh địch ở khắp mọi
hướng, tiến công địch ở mọi nơi… Trong 4 tháng mùa khô 1965 - 1966, ta đã loại
khỏi vòng chiến 104.000 tên địch, trong đó có 42.000 quân Mĩ và 35.000 quân chư
hầu, bắn hạ 1430 máy bay, phá hủy 600 xe tăng, thiết giáp và trên 1.310 ôtô…
của địch.
Tổng kết về thắng lợi của ta trong giai đoạn
này, Tướng Nguyễn Chí Thanh đã nhận đinh: “Chúng ta đã chiến thắng “Chiến tranh
cục bộ” của Mĩ ngụy từ đầu, quân và dân miền Nam chẳng những đã tiếp tục đánh
thắng và làm tan rã ngụy quân, mà còn đánh thắng hiệp đầu quân Mĩ, một đội quân
hùng mạnh và hiện đại nhất của thế giới tư bản. Chúng ta giành thắng lợi cả về
chính trị và quân sự, và chủ yếu đó là thắng lợi quân sự”[Dẫn lại; 37: 176].
1.2.2.4.
Đánh tan hai cuộc phản công mùa khô 1966 – 1967
Sau thất bại của cuộc phản công chiến lược
mùa khô 1965 – 1966, Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mc. Na – ma – ra quyết định tiếp
tục đưa cuộc chiến lên một mức cao hơn, và đã đệ trình lên tổng thống Mĩ một
bản kiến nghị bao gồm 5 điểm:
1. Ổn định quân số Mĩ ở miền Nam Việt Nam là 47 vạn.
2. Thiết lập một hàng rào điện tử nằm gần vĩ
tuyến 17, kéo dài từ biển sang Lào nhằm ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc.
3. Ổn định chương trình “sấm rền” đánh phá
miền Bắc.
4. Theo đuổi một chương trình bình định mạnh
mẽ.
5. Gây sức ép đòi thương lượng.[37: 176]
Mùa khô 1966 - 1967, Mĩ huy động một lực
lượng lên đến 980.000 quân (trong đó có 440.000 lính Mĩ và chư hầu) mở cuộc
phản công lần thứ hai tấn công trực tiếp vào hướng Đông Nam bộ nhằm tiêu diệt
quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bước ngoặt trong chiến tranh.
Chúng đã tiến hành 895 cuộc hành quân “tìm
diệt” lớn nhỏ tất cả, trong đó có 3 cuộc hành quân “tìm diệt” then chốt:
+ At-tơn-bo-rơ đánh vào chiến khu Dương Minh
Châu (tháng 11 năm 1966)
+ Xê-da-phôn đánh vào Trảng Bàng, Bến Súc, Củ
Chi – vùng đất được mệnh danh là “tam giác sắt” (tháng 1 năm 1967).
+ Gian-xơn-xi-ty đánh vào vùng Bắc Tây Ninh –
căn cứ của Trung ương cục Miền Nam
và các cơ quan trung ương khác của cách mạng miền Nam
(từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1967).
Tháng 6 năm 1966, Trung ương Đảng chủ động mở
mặt trận đường 9 Bắc Quảng Trị để buộc địch phải phân tán một bộ phận chủ lực
quan trọng ra phía Bắc. Đồng thời ngày 20/10/1966, Ủy ban Trung ương mặt trận
Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra lời kêu gọi quân và dân miền Nam đứng
lên “đập tan kế hoạch phản công mới của Mĩ - ngụy, quyết giành được thắng lợi
thật to lớn trong Đông – Xuân 1966 - 1967”.[5: 214]
Quân và dân Nam bộ đã phối hợp với các chiến
trường khác mở hàng loạt cuộc phản công, từng bước đánh bại các cuộc hành quân
“tìm diệt” và “bình định” của địch; ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 151.000 tên,
trong đó có 68.000 lính Mĩ và 5500 quân chư hầu, bắn rơi 1231 máy bay, phá hủy
nhiều phương tiện chiến tranh khác của địch.
1.2.2.5.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968
Sau 2 cuộc phản công mùa khô, so sánh tương
quang lực lượng giữa ta và địch đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ta. Số
lính Mĩ bị thương vong trên chiến trường Việt Nam ngày càng nhiều và chi phí
cho cuộc chiến ngày càng tăng thì sự phản đối cuộc chiến tranh càng lan rộng
hơn và những quan điểm ủng hộ việc rút quân Mĩ khỏi Việt Nam cũng bắt đầu tăng
nhanh trong giới chính khách Mĩ. Ngay cả Bộ trưởng Quốc phòng Mĩ Mc. Na-ma-ra -
một người đã từng ủng hộ việc đưa quân vào miền Nam và ném bom miền Bắc kể từ
tháng 8 năm 1966 - cũng đã bắt đầu tỏ ra "nản chí trước sự huỷ diệt Việt
Nam bằng sức mạnh khổng lồ của sắt thép, chất nổ và tỏ ra lo lắng trước tổn
thất về phi công và máy bay, không lạc quan đối với kết quả của việc ném bom và
quan trọng hơn hết là lo lắng rằng việc tăng cường cuộc tiến công trên không và
trên mặt đất sẽ dẫn đến các cuộc chiến tranh mở rộng với Trung Quốc và Liên
Xô"[34:58] và ngày 01 tháng 11 năm 1967, trong một bị vong lục gởi
Tổng thống, Mc Na - ma - ra đã đệ trình một loạt các kiến nghị: ngừng ném bom
miền Bắc Việt Nam. Tuyên bố Mĩ không tiếp tục gởi quân sang miền Nam Việt Nam
và xem xét những cuộc hành quân quân sự của Mĩ nhằm giảm bớt thương vong, giảm
bớt sự tàn phá đất nước Việt Nam và chuyển vai trò ngày càng lớn lao cho lực
lượng quân sự miền Nam Việt Nam.
Song, những đề nghị này lại bị những cố vấn
thân cận của Tổng thống và tổng thống Johnson bác bỏ và kết quả là mấy tháng
sau, Mc Na - ma - ra phải rời ghế Bộ trưởng bộ quốc phòng sang làm Chủ tịch
Ngân hàng Thế giới.
Đến cuối năm 1967 đầu năm 1968, Johnson vẫn
tin rằng Mĩ có thể kết thúc chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam bằng một thắng lợi quân sự cuối cùng chứ
không phải bằng cách mà Mc Na - ma - ra đề nghị. Johnson rất khả quan về tình
hình chiến sự ở Việt Nam thông qua những báo cáo và những con số thống kê được
gởi về từ chiến trường Việt Nam và Johnson chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ phải
chấp nhận thất bại, xuống thang chiến tranh để giải quyết vấn đề Việt Nam:
Trong tháng 11 năm 1967, tướng Westmoreland đã tuyên bố trước một phiên họp của
liên viện Quốc hội Mĩ rằng "Chiến tranh đang diễn ra ở Việt Nam và sẽ
chiến thắng bằng quân sự". Hơn một tháng sau (17/01/1968), Tổng thống
Johnson cũng hết lời ca ngợi: “chương trình bình định ở miền Nam Việt Nam đang tiến triển một cách thật đáng hài lòng.
Cứ theo các con số thống kê ghi nhận được thì đã có đến 67% dân số ở Nam Việt
Nam sống tại các vùng tương đối an ninh; và con số phần trăm này có khuynh
hướng ngày một gia tăng"[34:25].
Những kết quả được báo cáo thiếu thực tế trên
đã giúp chính quyền Giôn – xơn tạo được uy tín để giành thắng lợi trong cuộc
bầu cử trong năm 1968. Nếu sự thật về những thất bại của Mĩ trong cuộc chiến
tranh Việt Nam trong giai
đoạn này được phơi bày thì Giôn – xơn và đảng của ông ta sẽ lâm vào một tình
thế khó khăn và bất lợi trước dư luận của công chúng Mĩ.
Chính vì vậy, Đảng đã chủ trương mở cuộc
“Tổng công kích, tổng khởi nghĩa” trên khắp chiến trường miền Nam, chủ yếu là ở các đô thị, nhằm tiêu diệt một
bộ phận quan trọng quân Mĩ - ngụy, buộc Mĩ phải rút quân về nước.
Đêm 30 rạng ngày 31 tháng 01 năm 1968, quân
chủ lực của ta đã đồng loạt tấn công và nổi dậy ở 37/44 thị xã, 5/6 thành phố
trên toàn miền Nam.
Tại Sài Gòn, quân ta đã tấn công vào các vị
trí cơ quan đầu não của địch như Tòa Đại sứ Mĩ, Dinh Độc lập, đài phát thanh,
sân bay Tân Sơn Nhất, Bộ Tổng tham mưu, Bộ tư lệnh Biệt khu thủ đô, Tổng Nha
cảnh sát…
Tại Huế, Quân ta đã chiếm hầu hết các mục
tiêu quan trọng như Dinh tỉnh trưởng, đài phát thanh, Khách sạn Thuận Hóa, sân
bay … và làm chủ thành phố trong 25 ngày (từ 31/1/1968 đến 25/2/1968).
Tại nhiều thành phố, thị xã khác như: Kontum,
Plâycu, Buôn Ma Thuột, Quảng Trị, Biên Hòa, Bến Tre, Mĩ Tho,… các lực lượng vũ
trang nhân dân đã nổi dậy tiến công mạnh mẽ gây cho địch nhiều tổn thất.
Sau chưa đầy 2 tháng, quân ta đã loại khỏi
vòng chiến 150.000 tên, trong đó có 45.000 lính Mĩ và chư hầu, phá hủy một khối
lượng lớn vật chất và phương tiện chiến tranh của địch.
Sau đợt tấn công Tết, ta tiếp tục tiến công
đợt 2 (4/5 – 18/6) và đợt 3 (17/8 – 23/9). Tuy nhiên hai đợt tấn công này không
còn giữ được yếu tố bất ngờ và địch còn mạnh nên ta không giành được những
thắng lợi lớn như đợt tấn công Tết.
Đây là một đòn bất ngờ làm cho địch choáng
váng, nhưng lực lượng của địch còn mạnh, nên chúng đã nhanh chóng tổ chức phản
công giành lại những mục tiêu bị ta chiếm và đồng thời cũng đã làm cho ta bị
tổn thất khá nặng nề.
Tuy vậy, cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết
Mậu Thân đã tác động mạnh mẽ đến nước Mĩ: phong trào phản chiến đòi Mĩ rút quân
khỏi Việt Nam ở Mĩ dâng cao, buộc tổng thống Giôn- xơn phải tuyên bố “phi Mĩ
hóa” chiến tranh; thay chiến lược “tìm diệt và bình định” bằng chiến lược mới
là “quét và giữ”, quân đội Nam Việt Nam sẽ thay thế dần vai trò của quân đội Mĩ
trên chiến trường, giảm các cuộc hành quân quy mô lớn, mở ra bước ngoặt quyết
định cho cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân ta.
Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Giôn-xơn tuyên bố
không ra tranh cử nhiệm kì thứ hai và ra lệnh ngừng ném bom bắn phá ở miền Bắc
từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta.
Như vậy, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã
làm thất bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ ở miền
Nam Việt Nam.
2. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của Mĩ, vừa chiến đấu vừa sản xuất (1965 - 1968)
2.1. Mĩ tiến hành chiến tranh
không quân và hải quân phá hoại miền Bắc
Tấn công phá hoại miền Bắc là một kế hoạch
được tiến hành song song với chiến lược “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam nhằm
đánh vào hậu phương của cách mạng miền Nam.
Tháng 4/1964, Hội đồng Tham mưu trưởng liên
quân Mĩ đã vạch ra kế hoạch ném bom miền Bắc và thông qua danh sách 94 mục tiêu
đánh phá khi được lệnh. Trước đó, tháng 3/1964, Mĩ cũng đã có kế hoạch dùng tàu
khu trục để tuần tiểu vịnh Bắc bộ, tiến hành trinh sát ven biển Việt Nam.
Để có cớ tấn công miền Bắc, ngày 31/7/1964,
tàu khu trục Ma - đốc của Mĩ đã tiến vào hải phận nước ta để do thám. Hôm sau,
chúng cho máy bay T28 đánh phá các đồn biên phòng của ta ở Nậm Cắn, Noong De
thuộc tỉnh Nghệ An. Ta đã dùng ba tàu phóng lôi đánh đuổi và buộc tàu Ma - đốc
phải rút ra hải phận quốc tế.
Ngày 03/8/1964, Mĩ tiếp tục điều thêm tàu Tớc
-nơ - gioi cùng tàu Ma - đốc trở lại vịnh Bắc bộ. Ta chưa có phản ứng gì, nhưng
đêm 4/8/1964, Mĩ đã vu cáo rằng Việt Nam
tấn công hải quân Mĩ trên hải phận quốc tế. Và Giôn - xơn đã cho không quân Mĩ
mở các cuộc "trả đũa" nhằm vào miền Bắc nước ta, đồng thời yêu cầu
Quốc hội Mĩ thông qua Nghị quyết vịnh Bắc bộ.
Ngày 07/81964, Quốc hội Mĩ thông qua “Nghị
quyết về sự kiện Vịnh Bắc bộ", cho phép Giôn - xơn "tiến hành mọi
biện pháp cần thiết, kể cả sử dụng lực lượng vũ trang để giúp đỡ bất kỳ quốc
gia nào là thành viên hoặc nước bảo trợ của SEATO yêu cầu giúp đỡ"[1:
95,96]
Tháng 12/1964, Tổng thống Giôn - Xơn thông
qua “Kế hoạch Mc. Namara – Bânđi – Nâutơn nhằm mở rộng chiến tranh ra miền Bắc
vào giữa năm 1965.
Sau thất bại ở Bình Giã, Mĩ đã thực hiện kế
hoạch trên sớm hơn dự định. Ngày 07/2/1965, Giôn - xơn ra lệnh cho không quân
Mĩ mở chiến dịch "Mũi lao lửa", ném bom bắn phá thị xã Đồng Hới, đảo
Cồn Cỏ, chính thức mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc.
Đây là cuộc chiến tranh được Mc. Na – ma - ra
coi như một biện pháp bổ sung chứ không phải biện pháp thay thế cho cuộc chiến
tranh trên bộ của Mĩ ở miền Nam nhằm hạn chế sự chi viện của miền Bắc cho miền
Nam, từ đó làm giảm sức tiến công của lực lượng cách mạng miền Nam.
Mĩ đã huy động hàng nghìn máy bay tối tân,
thuộc 50 loại khác nhau, trong đó có cả máy bay B52, F111 cùng các loại vũ khí
hiện đại và một lực lượng hải quân thường xuyên có mặt ở Thái Bình Dương, các
căn cứ hải quân ở Nam Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác.
Lực lượng không quân và hải quân Mĩ đã ném
bom, bắn phá liên tục với cường độ ngày càng tăng. Trung bình mỗi ngày, miền
Bắc phải hứng chịu khoảng 1.600 tấn bom đạn của Mĩ trút xuống.
Mục tiêu tấn công của Mĩ không chỉ là các căn
cứ quân sự mà còn bao gồm cả những mục tiêu dân sự: các nhà máy, xí nghiệp, hầm
mỏ, công trình thủy lợi, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà thờ, nhà trẻ,
chùa chiền…
2.2. Miền Bắc chiến đấu chống chiến tranh phá
hoại của Mĩ
Cuộc chiến tranh phá họai miền Bắc của Mĩ đã
đẩy cả nước vào tình trạng chiến tranh; nhiệm vụ của miền Bắc cũng thay đổi so
với trước. Để phù hợp với tình hình mới, tháng 01/1965, Hội đồng quốc phòng đã
họp và đề ra nhiệm vụ, phương hướng công tác trước mắt của miền Bắc là tăng
cường công tác phòng thủ, trị an, sẵn sàng chiến đấu.
Để chống chiến tranh phá hoại của Mĩ, miền
Bắc đã thực hiện “quân sự hóa toàn dân”, đào đắp công sự chiến đấu, hầm hào,
phân tán dân khỏi những vùng trọng điểm để tránh thiệt hại lớn, đảm bảo đời
sống ổn định cho người dân.
Ngày 17/7/1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra
lời kêu gọi khẳng định ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến đấu
chống giặc Mĩ xâm lược “Giôn xơn và bè lũ phải biết rằng: chúng có thể đưa 50
vạn quân, một triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược
miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá
miền Bắc. Nhưng chúng không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống
Mĩ cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng… chiến tranh có thể kéo dài 5 năm,
10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí
nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân
ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”[22: 108]
Trên tinh thần đó, nhân miền Bắc đã huy động
toàn dân chống giặc; bên cạnh lực lượng phòng không, hải quân với vũ khí và
phương tiện chiến tranh hiện đại, lực lượng dân quân, du kích, tự vệ chiến đấu
của toàn dân không ngừng ngày đêm hỗ trợ, phục vụ chiến đấu và khắc phục hậu
quả do chiến tranh tàn phá.
Trong hơn 4 năm (từ 05/8/1964 - 01/11/1968),
quân và dân miền Bắc đã bắn rơi 3.234 máy bay Mĩ (trong đó có 6 máy bay B52, 3
máy bay F.111) diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mĩ; bắn chìm và bị thương
43 tàu chiến và tàn biệt kích.[28: 219]
Cùng với những thất bại ở chiến trường miền
Nam, đặc biệt là sau cuộc tổng công kích, tổng khởi nghĩa tết Mậu Thân – 1968,
Mĩ buộc phải tuyên bố ném bom hạn chế miền Bắc từ vì tuyến 20 trở ra kể từ ngày
31/3/1968 và đến ngày 01/11/1968, Mĩ ngừng ném bom, bắn phá miền Bắc hoàn toàn.
2.3. Tiếp tục tiến lên chủ nghĩa xã hội, chi
viện cho miền Nam
Như vậy, bên cạnh nhiệm vụ chiến đấu chống
chiến tranh phá hoại, miền Bắc còn phải tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện có chiến tranh và chi viện cho miền Nam chống “chiến tranh cục
bộ” của Mĩ.
Nhận thức rõ vai trò to lớn của hậu phương
đối với tiền tuyến, Đảng ta đã đúc kết được rằng: "không có hậu phương lớn
miền Bắc được tạo ra trong kết quả lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội thì không
có thắng lợi trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam. Hơn nữa bản
thân cuộc chiến đấu của nhân dân miền bắc cũng cần có một hậu phương tại chỗ
được tạo ra bằng lao động của chính mình"[28: 216] và đưa ra quyết
tâm: "bất cứ tình hình như thế nào, miền Bắc cũng phải được củng cố, phải
tiến lên chủ nghĩa xã hội"[28: 216]
Để phù hợp với tình hình mới, Đảng đã chủ
trương chuyển hướng nền kinh tế miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tập
trung vào việc xây dựng và phát triển kinh tế vùng, kinh tế địa phương nhằm bảo
đảm cho mỗi vùng, miền, mỗi địa phương chủ động hơn trong việc duy trì và đẩy
mạnh sản xuất, tự cung, tự cấp những mặt hàng thiết yếu trong điều kiện chiến
tranh ác liệt. Báo cáo của Hội đồng Chính phủ tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khóa
VII (4/1966) đã xác định: "Phát triển kinh tế địa phương với tốc độ nhanh
hơn bình thường, đó là phương hướng cơ bản để làm cho bất kỳ nơi nào cũng có
thể phát huy được lực lượng của mình để đánh địch theo đường lối chiến tranh
nhân dân".[45: 142].
Nhờ chủ trương và biện pháp đúng đắn trên của
Đảng, nhân dân miền Bắc đã vượt qua được những khó khăn, thách thức, dấy lên
một cao trào cách mạng rộng lớn chưa từng có của quần chúng nhân dân trong lao
động sản xuất; giai cấp công nhân nêu cao quyết tâm, “chắc tay súng vững tay
búa”, cần cù và sáng tạo trong lao động sản xuất, dũng cảm và mưu trí trong
chiến đấu, quyết tâm phấn đấu đạt "ba điểm cao" - năng suất cao, chất
lượng tốt, tiết kiệm nhiều; cán bộ công nhân viên thi đua thực hiện "ba
cải tiến" - cải tiến công tác, cải tiến tổ chức, cải tiến lề lối làm việc;
thanh niên có phong trào "ba sẵn sàng" - sẵn sàng chiến đấu, nhập ngũ
và đi bất cứ nơi đâu khi tổ chức cần; phụ nữ có phong trào "ba đảm
đang", trong ngành giáo dục có phong trào thi đua "hai tốt" –
dạy tốt, học tốt.
Tất cả nhân dân miền Bắc chung sức, chung
lòng vừa chiến đấu vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội với tinh thần "tất cả cho
tiền tuyến tất cả để chiến thắng" và "mỗi người làm việc bằng hai vì
đồng bào miền nam ruột thịt", "thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người". Kết quả:
Trong nông nghiệp: Hai ngành sản xuất phát triển mạnh nhất là
chăn nuôi và trồng trọt; diện tích canh tác được mở rộng, năng suất lao động
không ngừng tăng lên: năm 1965, miền Bắc chỉ có 7 huyện và 640 hợp tác xã đạt
mức sản lượng 5 tấn/ha/năm đến năm 1967 tăng lên 30 huyện và 2.628 hợp tác xã
đạt đến mức sản lượng trên. Tỉnh Thái Bình, huyện Thanh Trì (Hà Nội), huyện Đan
Phượng (Hà Tây) trở thành “quê hương 5 tấn” đầu tiên.
Trong công nghiệp: Các cơ sở sản xuất lớn sau khi sơ tán, phân
tán đã dần dần đi vào sản xuất ổn định trở lại, đảm bảo cung cấp, đáp ứng những
nhu cầu thiết yếu của sản xuất, chiến đấu và đời sống.
Công nghiệp quốc phòng được tăng cường và đặc
biệt công nghiệp địa phương phát triển rất mạnh.
Trong giao thông vận tải: Cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
Mĩ đã tàn phá nghiêm trọng hệ thống giao thông của miền Bắc. Nhân dân miền Bắc
đã bất chấp bom đạn, ra sức khôi phục và bảo vệ các mạch máu giao thông của
miền Bắc và hệ thống đường vận tải chiến lược Bắc – Nam. Miền Bắc còn đầu tư
nâng cấp các tuyến đường huyết mạch chi viện cho miền Nam và đầu tư các phương tiện cơ giới, đáp ứng
nhu cầu vận tải phục vụ công tác chi viện cho miền Nam.
Trong lĩnh vực tài chính - thương mại: đảm bảo được việc cung ứng vốn, hàng hóa
phục vụ cho việc phát triển kinh tế thời chiến và yêu cầu chiến đấu chống kẻ
thù.
Trong văn hóa, giáo dục và y tế: Mặc dù đang trong hoàn cảnh chiến tranh, nền
giáo dục vấn tiếp tục phát triển, đặc biệt là giáo dục đại học, số sinh viên
tăng gấp 3 lần so với trước chiến tranh phá hoại; số cán bộ có trình độ đại học
năm 1965 là 20.000, đến năm 1969, con số này lến đến 40.000 người.[37: 193]
Các ngành văn hóa, nghệ thuật hoạt động sôi
nổi phục vụ cho quần chúng, y tế đã có những thành tựu mới về chuyên môn …
Sau 4 năm thực hiện chủ trương chuyển hướng
nền kinh tế sang thời chiến, mỗi tỉnh trở thành một đơn vị kinh tế tương đối
hoàn chỉnh, có thể tự túc, tự cấp đến mức cao nhất, đảm bảo hậu cần cho cuộc
chiến đấu tại chỗ và đời sống nhân dân.
Những thành quả trên còn là một nguồn lực
đánh kể giúp cho miền Bắc làm tròn nghĩa vụ hậu phương lớn đối với miền Nam. Tính chung sức người, sức của từ miền Bắc
chi viện cho miền Nam trong 4 năm (1965 - 1968) tăng gấp 10 lần so với thời kỳ
trước: hơn 30 vạn cán bộ, bộ đội, hàng chục vạn tấn vật chất, vũ khí đạn dược,
quân trạng, quân dụng, xăng dầu, thuốc men …
Sự chi viện to lớn đó đã góp phần quyết định
thắng lợi của quân dân ta ở miền Nam
trong cuộc chiến đấu chống “chiến tranh cục bộ” của Mĩ - Ngụy.
BÀI TẬP
1. Âm mưu, thủ đoạn của Mĩ trong "Chiến
tranh cục bộ" (1965 - 1968)? Quân dân ta ở miền Nam
đã chiến đấu chống lại và giành thắng lợi như thế nào?
2. Mĩ mở rộng chiến tranh không quân phá hoại
miền Bắc trong hai lần (5/8/1964 đến 1/11/1968 và 6/4/1972 đến 15/1/1973) nhằm
thực hiện âm mưu và dùng thủ đoạn gì? Quân dân ta ở miền Bắc đã chiến đấu chống
lại và giành thắng lợi như thế nào?
3. Những điểm giống và khác nhau giữa chiến
lược "Chiến tranh đặc biệt" (1961 - 1965) và chiến lược "Chiến
tranh cục bộ" (1965 - 1968) của đế quốc Mĩ ở miền Nam Việt Nam?
[1] Việc tiến hành ở miền Nam
Việt Nam một cuộc chiến tranh kiểu chiến tranh cục bộ ở Triều Tiên (1950 -
1953) là ngoài ý muốn của Mĩ. Bởi lẽ kiểu chiến tranh “lộ mặt” này sẽ mâu thuẫn
với chủ nghĩa thực dân mới của chúng ở miền Nam. Hơn nữa, việc đưa quân Mĩ trực
tiếp tham chiến tại miền Nam
và ném bom miền Bắc có thể gây những phản ứng của Liên Xô và Trung Quốc (như kinh
nghiệm chiến tranh triều Tiên). Đây chính là điều mà chính quyền Mĩ lo ngại
nhất.
Tuy nhiên, Nhà Trắng đã được
Cục tình báo trung ương Mĩ giải tỏa khi họ cho rằng, chính sách của những người
lãnh đạo Liên Xô đối với Việt Nam trong một vài năm tới vẫn còn giới hạn. Còn
Trung Quốc lúc này đang làm cuộc cách mạng văn hóa vô sản, cho nên “Trung Quốc
sẽ không phản ứng theo bất kì cách nào đối chiến dịch ném bom , trừ khi quân Mĩ
hoặc Nam Việt Nam xâm lược miền Bắc Việt Nam hoặc miền Bắc Lào… phản ứng của Trung
Quốc đối với việc ném bom có hệ thống miền Bắc chắc sẽ có giới hạn”. Vì vậy,
tháng 12/1964, tổng thống Giôn – xơn quyết định thay thế “chiến trănh đặc biệt”
bằng “chiến tranh cục bộ”. (Trần Bá Đệ (chủ biên), Giáo trình Lịch sử Việt Nam
1945 - 1975), Nxb ĐHSP, HN, 2007, trang 167).
[2] Khí hậu miền Nam thường có
2 mùa trong năm: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng
4 năm sau (theo dương lịch).
[3] Ngay từ khi các cánh quân
của địch đổ xuống Vạn Tường, các khẩu đội súng cối và 60mm của
Trung đoàn 1 bắn cấp tập vào bãi đỗ quân của địch. Quân Mĩ dùng pháo hạm và máy
bay bắn phá, ngăn chặn ta, yểm trợ cho quân Mĩ đổ bộ lần thứ hai, nhưng quân ta
vận động tiến công vào đội hình của địch. Bị đánh dữ dội, quân Mĩ hỗn loạn,
chúng không còn kiểm soát được chiến trường. Địch cho quân tiếp viện cũng bị
quân ta phục kích tiêu diệt gần hết. Địch từ chỗ chủ động chuyển sang bị động,
chống đỡ lúng túng. Pháo hạm của Mĩ vẫn tiếp tục pháo kích dữ dội hòng làm giảm
áp lực của ta và dùng máy bay lên thẳng chở lực lượng dự bị từ hạm đội đậu
ngoài khơi đổ xuống Vạn Tường ứng cứu. Ta từ chỗ bất ngờ đã giành được thế chủ
động tiến công và trận chiến đã tiếp tục cho đến khi màn đêm buông xuống
(Nguyễn Bá Đệ (Chủ biên) (2007), Giáo trình Lịch sử Việt Nam 1945 – 1975, Nxb
ĐHSP, Hà Nội, trang 174).
[4] Hướng Tây Bắc Sài Gòn gồm:
Củ Chi, Bến Cát, chiến khu Đ, Chiến khu Dương Minh Châu (còn gọi là chiến khu
C). Trên hướng này, địch đặt ra mục tiêu diệt sư đoàn 9 chủ lực Miền và phá căn
cứ kháng chiến của cách mạng. Hướng Đông Sài Gòn: từ sông Đồng Nai đến Bà Rịa.
Trên hướng này, địch muốn bảo vệ đường 15, sông Lòng Tàu và căn cứ quân sự Biên
Hòa. Hướng Nam Phú Yên.
Hướng Bắc Bình Định và hướng Nam Quảng Ngãi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét